
Tôi sinh con đầu lòng khi bước vào năm cuối của chương trình tiến sĩ. Một giáo sư trong khoa đã vô cùng ái ngại và thậm chí đã chia sẻ với một người bạn của tôi rằng, “Tôi sợ Mai sẽ không thể vừa nuôi con vừa hoàn thành luận án được?”
Một người bạn khá thân cũng từng hỏi tôi, “Cậu nghĩ cậu có thể tốt nghiệp được không?”
Khi đã đi làm, tôi vẫn thường xuyên nhận được những ánh nhìn cảm thông và câu hỏi về các phương pháp hài hòa việc nuôi con và công việc giảng viên đại học đầy áp lực. Đôi khi tôi bắt gặp ánh nhìn và nhận được những câu hỏi ấy ở các hội thảo chuyên ngành.
Dù được/bị hỏi rất nhiều lần, tôi luôn bối rối vì không biết phải trả lời thế nào. Tôi thường chỉ cười cười rồi nói, thật ra có con giúp tôi sử dụng thời gian hiệu quả hơn và có thêm động lực để làm tốt công việc của mình.
Bên cạnh tôi có rất nhiều phụ nữ vừa là mẹ vừa theo đuổi con đường học thuật một cách thành công. Họ là những tấm gương để tôi noi theo. Một giáo sư trong hội đồng luận án tiến sĩ của tôi trước đây tại Đại học Arizona sinh ba con trong vòng sáu năm khi chưa có tenure (tức là khi đang làm ở vị trí Giáo sư Dự khuyết – Assistant Professor). Cô đã xuất bản rất nhiều bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín và một cuốn sách với nhà xuất bản Đại học Cambridge. Tại trường đại học nơi tôi đang làm việc hiện nay, một giáo sư cũng sinh hai con trong thời gian làm Assistant Professor và nhận được giải thưởng lớn về nghiên cứu của trường vì những đóng góp cho ngành.
Tôi cũng biết rất nhiều phụ nữ khác vừa là mẹ vừa là học giả. Tôi chắc chắn không phải là một trường hợp đặc biệt, nhưng không hiểu sao bản thân luôn gặp phải những tình huống như kể ở trên. (Cũng có thể những người mẹ khác cũng gặp các câu hỏi tương tự mà tôi không biết).
Năm học vừa rồi, tôi có tham dự một số hội thảo chuyên ngành và có cơ hội gặp lại một vài người bạn cũ tôi quen khi học tiến sĩ. Có bạn chia sẻ về mong muốn sinh con nhưng vẫn đang có “rất nhiều nỗi lo lắng và băn khoăn trong lòng.” Nghe câu chuyện của bạn bè, tôi nhận ra rằng có rất nhiều hiểu lầm về việc sinh con và nuôi con trong cộng đồng những phụ nữ học tiến sĩ và làm khoa học.
Hiểu lầm thứ nhất là sẽ có một khoảng thời gian vàng để sinh con.
Có bạn chia sẻ với tôi rằng, bạn muốn sinh con khi “sự nghiệp đã ổn định và hoàn toàn hài lòng với danh tính của mình.” Bạn không muốn có con khi đang là nghiên cứu sinh vì sợ không thể hoàn thành chương trình, có bằng và đi tìm việc. Bạn nghĩ rằng khi đã có công việc toàn thời gian rồi sinh con sẽ bớt áp lực và lo lắng hơn.
Nhưng thật ra không có một khoảng thời gian nào là hoàn hảo để sinh con. Giai đoạn nào cũng có những ưu và nhược điểm riêng.
Khi còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ, áp lực bài vở trên lớp ở giai đoạn đầu, áp lực thi vượt rào, áp lực viết và bảo vệ luận án tiến sĩ và cảm giác mông lung về tương lai thật sự khiến ta sợ khi nghĩ đến việc phải chăm sóc thêm một em bé đỏ hỏn nữa. Nhưng ưu điểm lớn nhất khi có con thời điểm này là sự linh hoạt về thời gian. Nếu cần thiết ta có thể có dài thời gian học tiến sĩ thêm một hoặc hai năm.
Ưu điểm có con sau khi đã tốt nghiệp và có việc làm ổn định là tài chính của ta dư giả hơn và có cảm giác chắc chắn (hơn) về tương lai. Tuy nhiên, giờ đây, thời gian của ta không thể linh hoạt như trước, ai cũng đòi hỏi thời gian từ ta. Khi bắt đầu sự nghiệp, ta cần nỗ lực để dạy tốt, làm nghiên cứu tốt, và xây dựng danh tính, uy tín của bản thân. Rất khó để “dừng lại” một hai năm để hoàn toàn chăm sóc con nếu cần thiết.
Thật sự không có thời gian nào là hoàn hảo. Khi vợ chồng chúng tôi đưa ra bất cứ quyết định gì trong cuộc sống từ tài chính, nhà cửa, đến con cái, chúng tôi đều suy nghĩ về những được và mất của các lựa chọn khác nhau.
Tôi thường nói với bạn đồng hành, “Một khi đã quyết định thế này rồi, mình hãy đặt hết thời gian và tâm chí để theo đuổi quyết định ấy, bởi quyết định nào cũng có đánh đổi riêng.”
Hai là, có con sẽ không có thời gian để làm nghiên cứu và học hành gì nữa.
Rất nhiều người (phần lớn từ Việt Nam) từng nói với tôi rằng, đam mê và thời gian của tôi dành cho nghiên cứu sẽ mất đi sau khi có con. Chăm con, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa chiếm toàn bộ thời gian rồi thì làm gì có tâm trí nào mà suy nghĩ về những điều mình thích?
Tất nhiên, thời gian tôi dành cho công việc sẽ giảm đi so với khoảng thời gian trước khi có con. Trong thời gian làm tiến sĩ, trước khi con gái ra đời, tôi thậm chí làm việc cả những ngày cuối tuần và trong giai đoạn bận rộn, có thể làm cả buổi tối.
Tôi vẫn nhớ kỳ nghỉ lễ giáng sinh trước kì thi Comprehensive Exam. Tôi đón giáng sinh ở nhà bạn đồng hành ở Minnesota, buổi chiều hôm trước giáng sinh, tôi vẫn đến thư viện công cộng trong thành phố để chuẩn bị cho kỳ thi.
Lại nữa, sau khi có con, việc đi thực địa sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Trước đây, tôi có thể về Việt Nam hoặc đi một nước khác thu thập số liệu cả tháng. Nhưng hiện tại, tôi phải cố gắng sắp xếp chuyến đi trong thời gian ngắn nhất có thể. Con chỉ mới hơn hai tuổi, tôi không thể đi cả tháng được, chỉ một tuần xa con là tôi thấy nhớ nàng rồi.
(Thật lòng, cũng có lúc tôi thấy “ghen tị” với một đồng nghiệp nữ trong ngành vì cô có thể “sống” ở thực địa cả mùa hè để phỏng vấn và quan sát cuộc sống của đối tượng nghiên cứu. Thế là tôi lại lo sẽ không thể có đủ thông tin và số liệu cho các nghiên cứu của mình. Nhưng tôi hiểu, gia đình và con gái là điều bản thân cần ưu tiên trong thời điểm hiện tại).
Ít thời gian hơn không đồng nghĩa với việc kém năng suất hơn. Tôi nhận thấy làm việc năng suất không đi kèm với lượng thời gian ta có. Thậm chí, càng thừa mứa thời gian, ta càng làm việc kém hiệu quả. Khi có một khoảng thời gian hạn hữu, ta sẽ tập trung toàn bộ năng lượng để hoàn thành công việc tốt nhất trong khả năng mình có.
Vì muốn dành thời gian cho con, nên bất cứ khi nào con đi lớp hoặc con ngủ, tôi sẽ tận dụng thời gian để làm việc. Mấy tuần gần đây, tôi thường dậy từ 5 giờ hoặc 5:30 sáng để viết và giải quyết những công việc quan trọng. Đến 7 giờ, tôi chuẩn bị bữa sáng và hộp cơm trưa cho con mang đến lớp. Cuối tuần con không đi lớp, hai vợ chồng tôi cố gắng dành toàn bộ thời gian cho con, đưa con đi chơi và đi ăn những món ăn mới lạ.
Nhớ khoảng thời gian viết luận án tiến sĩ khi con gái mới chào đời, cứ khi nào con ngủ (kể cả chỉ ngủ khoảng 30-45 phút), tôi lại vội lao vào bàn làm việc viết lách. Tối sau khi con ngủ, tôi sẽ làm việc thêm khoảng hai hoặc ba tiếng . Thật lòng, có lúc tôi cảm thấy lo lắng và căng thẳng khi không có cả một ngày hay vài ngày chỉ tập trung làm luận án. Nhưng mỗi ngày làm một chút rồi cũng có ngày đến đích. Đừng đánh giá thấp những nỗ lực nhỏ mỗi ngày. Tôi nhận thấy câu “kiến tha lâu cũng đầy tổ” thật sự rất đúng!
Đúng là trước khi con gái ra đời, tôi có thể làm việc bất cứ lúc nào và trong bao lâu tùy thích. Nhưng hiệu quả thì chưa chắc đã cao. Vì nhiều thời gian nên khi ngồi vào bàn, tôi phải dành đến cả tiếng kiểm tra mạng xã hội, xem tin nhắn, xem video trên Youtube, vân vân và vân vân. Mãi mới tập trung làm việc được. Quá nhiều thời gian chưa chắc đã tốt!
Thứ ba, luôn tin rằng có một mẫu hình chung về một người mẹ tốt.
Xã hội luôn đa dạng, và có sự xung đột giữa những niềm tin cũ và niềm tin mới. Ngay cả ở Mỹ, nhiều người vẫn tin rằng một người mẹ tốt phải ở nhà chăm con. Những người khác lại tin rằng phụ nữ vừa phải có sự nghiệp riêng vừa phải biết cách nuôi dạy con.
Người ngoài luôn đánh giá liệu bạn có phải là một người mẹ tốt không từ quan điểm và góc nhìn của họ. Điều này, đôi khi, đặt áp lực vô hình lên những người mẹ, nhất là giai đoạn mới sinh.
Trong vòng ba tháng đầu sau khi mới sinh con, tôi đã tranh thủ hoàn thành nốt bài nghiên cứu dang dở (bắt đầu viết trước khi con chào đời). Một vài người bạn cùng chương trình tiến sĩ khuyên tôi nên dành thời gian nghỉ ngơi, chăm sóc con và nên cân nhắc xin ở lại trường một năm để con cứng cáp hơn rồi mới nên đi tìm việc. Họ tin rằng, thời gian đầu một người mẹ tốt phải dành toàn bộ thời gian cho con.
Nhưng cũng có những người phụ nữ khác bị kì thị vì dành quá nhiều thời gian ở nhà chăm con mà không phấn đấu phát triển bản thân và sự nghiệp.
Trong cuốn sách Cái giá của đặc quyền: Áp lực từ cha mẹ và lợi thế vật chất đang tạo ra một thế hệ bất hạnh như thế nào, Tiến sĩ Madeline Levine đã chỉ ra rằng tranh cãi về việc một người mẹ nên đi làm hay ở nhà nội trợ sẽ tốt hơn cho đứa con là một tranh cãi vô bổ.
Theo bằng chứng mà giáo sư chỉ ra, một người mẹ nội trợ hạnh phúc và hài lòng với bản thân mình sẽ nuôi dạy con cái tốt hơn là một người mẹ đi làm mà luôn thấy bất hạnh. Ngược lại, một người mẹ đi làm mà thấy hạnh phúc sẽ nuôi dạy con tốt hơn một người mẹ chỉ ở nhà và luôn thấy mình khổ sở. Tâm trạng và niềm hạnh phúc riêng của mẹ đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển tinh thần và tâm lý của con.
Là một nhà trị liệu tâm lý, Tiến sĩ Levine từng nghe rất nhiều đứa trẻ ở tuổi vị thành niên than thở rằng, “Cháu ước cuộc sống của mẹ cháu không chỉ xoay quanh mỗi cháu.” Lời than thở này đến từ cả những đứa con của các bà mẹ nội trợ và những bà mẹ đi làm toàn thời gian.
Điều cốt lõi là: Người mẹ phải cảm thấy hạnh phúc thì mới có thể nuôi dạy những đứa con hạnh phúc. (Đây là một cuốn sách rất hay và thấm thía. Tôi tin rằng ai đang là bố mẹ cũng nên đọc.)
Vì vậy, tôi cho rằng mỗi người mẹ phải luôn bước lùi lại và nhìn sâu vào bên trong mình, bởi chỉ mình mới hiểu bản thân mình nhất. Ta phải luôn tự hỏi: Điều gì quan trọng với mình? Điều gì làm mình hạnh phúc? Sức mạnh và điểm yếu của mình là gì? Những câu hỏi này có thể giúp ta hiểu được điều gì khiến bản thân mình hạnh phúc.
Và đối với bản thân tôi, tôi cần phải được làm việc và học những điều mới mẻ để cảm thấy hạnh phúc ngay cả khi vừa sinh con và đang chăm con. Tôi hiểu rằng bản thân mình không thể thấy vui và hạnh phúc khi không quay trở lại làm việc mình yêu thích.
Nhiều người ở trong chương trình tiến sĩ từng nói “Mai là người không bao giờ biết dừng lại,” ngay cả khi có những xáo trộn lớn trong cuộc sống. Nhưng thật ra, chỉ có bản thân tôi mới hiểu tôi không thể cảm thấy hạnh phúc khi không được làm nghiên cứu và viết lách.
Cảm ơn bạn đã ghé đọc blog!
Trương Thanh Mai
Discover more from SUNFLOWER FIELDS
Subscribe to get the latest posts sent to your email.