
Thứ năm tuần này, mình có dịp gặp hai nhà tài trợ cho quỹ nghiên cứu về châu Á của trường.
Quỹ này được thành lập để hỗ trợ các nghiên cứu liên quan đến châu Á, với rất nhiều hạng mục: từ kinh phí đi thực địa, chi phí gỡ băng phỏng vấn, thu thập số liệu, thuê sinh viên đại học làm trợ lý nghiên cứu, đến việc trả phí xuất bản mở (open access) hay tham dự hội thảo trình bày nghiên cứu.
Vì ở trường mình chỉ có khoảng 3-4 giảng viên nghiên cứu về châu Á, nên mình có cơ hội sử dụng quỹ này khá nhiều cho công việc. Mình thật sự biết ơn vì có nguồn hỗ trợ này để có thể làm những nghiên cứu mà mình yêu thích.
Chính vì vậy, mình rất vui khi có dịp gặp trực tiếp những người đã tài trợ cho các nghiên cứu của mình.
Thì ra, hai nhà tài trợ chính là một cặp vợ chồng từng học cao học tại trường cách đây hơn 30 năm. Họ gặp nhau, yêu nhau rồi cùng xây dựng gia đình. Bây giờ, người vợ là một giáo sư lịch sử đã nghỉ hưu, còn chồng là một doanh nhân thành đạt.
Trong buổi gặp mặt, mình cũng có cơ hội chia sẻ những nghiên cứu mình đang làm. Hai cô chú rất tò mò và còn muốn mình gửi bài nghiên cứu cho họ khi bài được xuất bản.
Mình có hỏi cô chú vì sao lại quyết định thành lập quỹ nghiên cứu về châu Á.
Cô chú nói rằng, người Mỹ không thực sự hiểu nhiều và hiểu sâu về châu Á. Họ tin rằng học sinh, sinh viên Mỹ cần được học nhiều hơn về khu vực này. Là một doanh nhân có kết nối giữa Mỹ và châu Á, chú tin rằng, trong tương lai, sự phát triển của nước Mỹ, cả về ngoại giao lẫn kinh tế, sẽ gắn liền với châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á.
Mình hoàn toàn đồng ý với nhận định của cô chú.
Tham vọng lớn nhất của mình trong giảng dạy là giúp sinh viên có một góc nhìn toàn diện và ít định kiến hơn về châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á.
Các nước Đông Nam Á thường được biết đến và đánh giá thông qua lăng kính cạnh tranh giữa các cường quốc lớn – hiện nay là giữa Mỹ và Trung Quốc. Mình muốn dạy sinh viên rằng, mỗi quốc gia Đông Nam Á có lịch sử, văn hoá và bản sắc riêng. Họ có thể làm chủ số phận và đưa ra quyết định của mình, không phụ thuộc vào những quốc gia lớn.
Ngay cả khi dạy về Trung Quốc, mình cũng cố gắng cân bằng giữa góc nhìn từ phía Mỹ và góc nhìn từ phía Trung Quốc.
Hơn hết, mình luôn mong rằng sau khi học xong lớp của mình, sinh viên sẽ nhận ra những định kiến và thiên kiến của bản thân, và có thể phân tích, đánh giá một sự việc từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Quay lại cuộc gặp với cô chú, ngay khi vừa bắt đầu trò chuyện, cô vợ đã nói với mình: “Tôi rất ấn tượng vì cô đã xuất bản được nhiều bài nghiên cứu khi mới vào nghề, và lại là một phụ nữ.”
Cô ấy cười, rồi nói tiếp: “Cô có thời gian làm việc gì khác ngoài nghiên cứu không?”
Mình cười đáp: “Tôi có một cô con gái hơn ba tuổi và con bé khiến tôi… không thể làm việc chăm chỉ hơn được nữa.”
Tất cả cùng bật cười!
Quả thật, là phụ nữ – nhất là phụ nữ nhập cư – không dễ để thành công trong môi trường học thuật, nơi nam giới vẫn chiếm số đông. Nhìn quanh, những nhà nghiên cứu và nhà khoa học được biết đến nhiều phần lớn vẫn là nam giới. Số lượng phụ nữ thật sự ít hơn hẳn, và để thành công lớn lại càng khó hơn , vì nhiều lý do.
Một là, xã hội – ngay cả ở những nơi được coi là tiến bộ như Mỹ hay châu Âu – vẫn tồn tại những định kiến về vai trò và năng lực của phụ nữ.
Khi phụ nữ có gia đình và con nhỏ, nhiều người mặc định rằng thời gian, cơ hội và khả năng để làm nghiên cứu sẽ giảm đi nhiều.
Mình vẫn nhớ, trong một hội thảo, một giáo sư nam ở trường khác đã nói với mình: “Tôi rất ấn tượng vì cô vừa có con vừa đi theo con đường này. Nhiều phụ nữ theo đuổi học thuật thường không lập gia đình hoặc không có con. Rất khó để cân bằng cả hai.”
Hai là, nhiều người vẫn cho rằng những việc khó, phức tạp, đòi hỏi tư duy cao thường dành cho nam giới. Những quan niệm kiểu như “nam giới tư duy logic tốt hơn,” “nam giới thông minh hơn,” hay “nam giới có nhiều ý tưởng sáng tạo hơn” vẫn còn tồn tại.
Hồi mình học tiến sĩ, một giáo sư từng chia sẻ rằng phụ nữ theo con đường học thuật… không nên kết hôn với người cùng ngành. Như trường hợp của cô ấy, cô thành công hơn chồng – là người cùng ngành – và chồng cảm thấy ghen tị, cuối cùng họ ly hôn.
Một trường hợp khác, người chồng giàu kinh nghiệm và ở vị trí cao hơn vợ, nên mọi người trong khoa mặc định rằng những ý tưởng trong các bài xuất bản của người vợ đều là… của người chồng.
Ba là, đôi khi chính phụ nữ lại tự giới hạn khả năng và cơ hội của mình, vì đã vô thức chấp nhận những quan điểm của xã hội về việc phụ nữ có thể hoặc không thể làm gì.
Là người nói tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ, mình luôn phải cố gắng nhiều hơn để được công nhận trong môi trường học thuật cạnh tranh ở Mỹ.
Chính vì hiểu được những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trên hành trình này, mình thật lòng rất vui khi thấy những phụ nữ trẻ khác – nhất là những người mà tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ – thành công.
Tuần này, mình nhận được tin nhắn từ một nghiên cứu sinh vừa bảo vệ luận án tiến sĩ thành công. Em ấy đã giúp mình rất nhiều trong chuyến đi thực địa thu thập dữ liệu ở Malaysia hè năm ngoái. Có tin vui gì trong học tập, công việc, em đều nhắn cho mình. Mình nhắn lại: “Tôi thật sự rất vui vì thành công của em. Tôi tin rằng em sẽ có một sự nghiệp rạng rỡ phía trước.”
Những kết nối như vậy, dù nhỏ thôi, lại là nguồn động viên rất lớn để mình tiếp tục hành trình này.
Cảm ơn bạn đã ghé đọc!
Trương Thanh Mai
Discover more from SUNFLOWER FIELDS
Subscribe to get the latest posts sent to your email.