
Mới ngày nào, tôi còn đang đắm chìm trong những trang sách và luận án Tiến sĩ. Vậy mà tôi đã tốt nghiệp Tiến sĩ và bắt đầu con đường nghiên cứu và giảng dạy chuyên nghiệp được gần 2 năm (chính xác là khoảng hơn 1 năm rưỡi). Bước chân vào sự nghiệp này, tôi đã phải đối mặt với những thách thức mới mẻ mà tôi không hề ngờ đến.
Hôm nay, khi nhìn lại quãng đường gần 2 năm đã qua, tôi muốn chia sẻ với bạn những thách thức và khác biệt giữa cuộc sống và công việc của một nghiên cứu sinh Tiến sĩ và một giáo sư đại học. Hi vọng bài viết sẽ hữu ích cho những bạn đang làm PhD và những ai muốn theo đuổi một sự nghiệp giảng dạy ở một trường đại học.
Sự độc lập
Mục tiêu lớn nhất của một chương trình Tiến sĩ (doctoral program) là đào tạo ra những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp độc lập. Khi bước vào năm cuối (năm thứ 5 ở trường Đại học Arizona), tôi rất nóng lòng muốn tốt nghiệp để xây dựng sự nghiệp của riêng mình.
Trong quá trình làm tiến sĩ, bản thân tôi cũng là một nghiên cứu sinh có khả năng làm việc độc lập cao. So với nhiều bạn cùng chương trình, tôi có thể tự viết nghiên cứu một mình, tự tìm cơ hội hợp tác, và biết rõ chủ đề nghiên cứu mình muốn theo đuổi ngay từ những ngày đầu làm PhD.
Tuy vậy, năm đầu tiên sau khi trở thành giáo sư đại học, nhiều lúc, tôi lại nhớ những tháng ngày ở chương trình Tiến sĩ. Khi đã hoàn toàn độc lập và tự đứng trên đôi chân của mình, đặc biệt là ở giai đoạn đầu, tôi bỗng thấy trân trọng hơn những ngày mình còn có sự định hướng và “phụ thuộc” vào người khác.
Chẳng hạn, khi còn là nghiên cứu sinh, tôi luôn có ai đó để xin ý kiến. Tôi có thể email cho giáo sư hướng dẫn và hẹn gặp để hỏi về ý tưởng hoặc lập luận cho một bài nghiên cứu của mình. Tôi có thể gửi bản nháp khảo sát và xin ý kiến của thầy trước khi thu thập số liệu. Khi lăn tăn không biết thiết kế nghiên cứu của mình có lỗ hổng nào không, tôi có thể thảo luận với các giáo sư trong hội đồng hướng dẫn luận án.
Khi trở thành nhà nghiên cứu độc lập, bạn sẽ phải tự quyết định mọi thứ, từ chủ đề nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, phân tích số liệu, tìm người hợp tác, trả lời nhận xét của những nhà bình duyệt, vân vân. Ngoài ra, bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với những gì bạn viết.
Có lần tôi chia sẻ vui vui với thầy hướng dẫn luận án rằng thỉnh thoảng tôi lại nhớ khoảng thời gian làm Tiến sĩ, vì tôi luôn nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của thầy. Bây giờ, tôi phải luôn tự đưa ra mọi quyết định và hoàn toàn tự thân vận động (all on my own). Haha. Thầy cười và bảo, “Bất cứ khi nào em cần giúp đỡ, hãy nói cho tôi biết.” Tất nhiên, hiện tại, tôi chỉ tìm đến thầy khi cần những lời khuyên cho những việc lớn như hướng phát triển lâu dài của sự nghiệp.
Sau gần 2 năm thì tôi đã quen và thật sự yêu thích sự độc lập và tự do mà công việc mang lại!
Thời gian
Trước khi rời bang Arizona nơi tôi học Tiến sĩ để đi nhận công việc đầu tiên, tôi có trò chuyện với một giáo sư trong hội đồng luận án. Tôi xin cô lời khuyên để trở thành một nhà nghiên cứu thành công. Tôi còn ngây thơ chia sẻ, “Em muốn đi làm để có thật nhiều thời gian viết lách”. Cô cười và bảo, “Thật ra, không khi nào em có nhiều thời gian để viết như khi còn học Tiến sĩ. Khi đã trở thành giáo sư, rất nhiều người và nhiều việc yêu cầu thời gian của em. Thời gian để tập trung viết sẽ ít đi rất nhiều.”
Lúc đó tôi không tin và thầm nghĩ, “Làm sao có thể vậy được chứ. Chẳng phải công việc chính của một giảng viên, đặc biệt là ở những trường ưu tiên nghiên cứu, là ….nghiên cứu hay sao?”
Hoá ra lời nhận xét của cô hoàn toàn chính xác! Khi đã đi làm, có những ngày, thậm chí những tuần trôi qua, mà tôi không có tiến triển gì trong nghiên cứu. Quả thật, có quá nhiều thứ đòi hỏi thời gian của tôi: lên lớp, các cuộc họp trong khoa, trong trường, các cuộc gặp gỡ với sinh viên, các cuộc trò chuyện với đồng nghiệp, email từ báo chí, vân vân và vân vân. Vì là giáo sư mới, nên tôi không thể nói không với mọi yêu cầu từ người khác.
Khoa tôi luôn tìm cách bảo vệ thời gian của các giáo sư mới. Tôi chỉ phải tham gia vào một uỷ ban (committee) của khoa – đó là uỷ ban chọn lựa sinh viên thạc sĩ, và không phải tham gia vào một hoạt động nào khác. Một kỳ tôi cũng chỉ dạy 2 lớp, chỉ phải lên lớp 2 ngày một tuần, và 2 lớp này không thay đổi qua các học kỳ – một khối lượng công việc giảng dạy rất vừa phải và dễ chịu. Tuy vậy, tôi luôn cảm thấy thời gian viết và làm nghiên cứu khá hạn hẹp. (Bạn đồng hành bảo tôi có cảm giác đấy là vì tôi đặt kỳ vọng cao quá. Không biết có phải là như vậy không nữa!)
Khi còn là nghiên cứu sinh, rất ít người đòi hỏi thời gian ở ta, ngoại trừ việc lên lớp. Khi đã hoàn thành coursework, ta chỉ phải tập trung vào luận án và nghiên cứu của mình. Ta có thể dành cả 5 ngày trong tuần tập trung vào viết lách. Nếu bạn vẫn đang là nghiên cứu sinh Tiến sĩ, hãy trân trọng sự…dồi dào về thời gian mà bạn đang có! Một khi đã trở thành giảng viên đại học, việc có được 5 ngày chỉ làm nghiên cứu là một…ước mơ vô cùng xa xỉ!
Trước khi rời Arizona, các giáo sư trong hội đồng luận án đã nói với tôi rằng, năm đầu tiên trên hành trình giáo sư đại học, tôi không nên đặt kỳ vọng quá cao về nghiên cứu. Năm đầu tiên thường là năm nhiều thử thách nhất bởi ta đang học cách thích ứng với vị trí và vai trò mới. Quả thật, điều tôi cảm thấy mãn nguyện nhất trong 2 năm đầu tiên là tìm ra được một phong cách làm việc phù hợp và học cách tạo ra thời gian để làm nghiên cứu. Tôi cố gắng phải dành được ít nhất 2 ngày trong tuần chỉ tập trung nghiên cứu; trong 2 ngày tôi sẽ nói không với mọi cuộc hẹn không cần thiết.
Luôn tư duy về phía trước
Khi bắt đầu hành trình giáo sư đại học, ta buộc phải học cách “tư duy định hướng về tương lai” (forward thinking), đặc biệt là trong nghiên cứu. Nghĩa là, ta phải luôn suy nghĩ và lập kế hoạch cho những dự án nghiên cứu tiếp theo khi một dự án kết thúc. Ta phải lên kế hoạch cho dự án tiếp theo B ngay khi bắt đầu dự án A. Nếu xuất bản xong dự án A mới nghĩ nên làm gì tiếp theo, ta sẽ không thể xuất bản đủ để được xét duyệt thăng chức sau 5-6 năm. Ta phải mường tượng ra một chương trình nghiên cứu với các dự án cụ thể được làm trong vòng 5-6 năm tới khi đến thời gian xét thăng chức. Thậm chí, cần phải có khung thời gian cho từng dự án.
Ngoài ra, mặc dù chỉ có thể tập trung viết một nghiên cứu tại một thời điểm nhất định, ta nên tham gia vào ít nhất 2-3 dự án khác đang ở các giai đoạn khác như thiết kế nghiên cứu hoặc thu thập số liệu. Như vậy, khi vừa xong một dự án viết và gửi đi, thì dự án đang ở giai đoạn thu thập số liệu sẽ bắt đầu bước vào giai đoạn viết và phân tích. Ta phải luôn tìm cơ hội thu thập số liệu để luôn có nguồn cho nghiên cứu trong tương lai.
Trong năm đầu tiên, tôi từng lo, “Không biết sau khi xuất bản hết các nghiên cứu liên quan đến luận án tiến sĩ, mình sẽ làm gì?” Thỉnh thoảng tôi cũng sợ…bí ý tưởng, không biết nghiên cứu gì tiếp theo. Nhưng tôi nhận ra, khi mình tập trung tìm kiếm và có tư duy định hướng về tương lai, cơ hội sẽ liên tục mở ra. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy cơ hội ở khắp nơi. Chẳng hạn, năm nay, tôi tình cờ có cơ hội tham gia vào 2 dự án hợp tác lớn với các đồng nghiệp ở trường khác, một dự án đi thực địa vào mùa hè, và một dự án cá nhân cho một Special Issue vào cuối năm 2024 (bên cạnh các dự án đang làm dở).
Dạy học
Đối với tôi, dạy học là việc khó nhất khi trở thành giáo sư đại học. Chương trình Tiến sĩ gần như tập trung hoàn toàn vào việc đào tạo làm nghiên cứu, với giả định rằng làm nghiên cứu tốt thì sẽ….dạy tốt. Phần lớn các nghiên cứu sinh có kinh nghiệm dạy học thông qua việc làm trợ giảng. Bản thân tôi có cơ hội dạy một lớp của riêng mình trong quá trình học Tiến sĩ, nhưng đó là một khoá học online ngắn hạn vào mùa hè.
Khi mới đi dạy, tôi thường lo lắng những gì mình giảng sinh viên ….đều biết hết rồi và sinh viên không học được gì mới. Để giảm bớt nỗi lo này tôi thường cung cấp quá nhiều nội dung và thông tin trong một bài giảng. Thành ra, bản thân mất nhiều thời gian để chuẩn bị bài và sinh viên chắc cũng thấy…. chán. Dần dần, tôi hiểu rằng, dành nhiều thời gian soạn bài không thật sự hiệu quả. Thật ra, mỗi bài giảng chỉ nên có khoảng 2-3 ý lớn và bài học lớn sinh viên cần nhớ.
Dạy học rất khó một phần vì ta có sự tương tác thường xuyên với người khác (sinh viên) và rất khó tách bạch bản thân với công việc. Chẳng hạn, hôm nào mà sinh viên thờ ơ, không đi học nhiều, ta rất khó tránh khỏi những suy nghĩ như, “Hay là bản thân mình không có cách nói chuyện hấp dẫn, thu hút người khác.” Trường hợp khó nhất là khi sinh viên rất cố gắng và chăm chỉ nhưng dù tôi có hướng dẫn thế nào, em cũng….không hiểu bài. Những lúc như thế, tôi lại có cảm giác mình là một người dạy học thất bại. Haha.
Thật sự, tôi rất thích dạy học (nếu chỉ dạy 1-2 lớp một học kỳ). Bản thân tôi đã học được rất nhiều từ việc truyền đạt kiến thức cho người khác. Nếu chỉ làm nghiên cứu, ta rất dễ chỉ tập trung vào một chủ đề nhất định và một quốc gia cụ thể nào đó, nên kiến thức tuy sâu nhưng thường hẹp. Ngược lại, dạy học buộc ta phải đọc và hiểu rộng về nhiều chủ đề, dù không sâu. Dạy học thật sự đã cho tôi rất nhiều kiến thức rộng quý giá.
Tôi tin rằng nghiên cứu và dạy học bổ trợ cho nhau rất tốt và ta nên làm cả hai. Nếu bạn năng động trong nghiên cứu, bạn sẽ giúp sinh viên tiếp cận với những kiến thức khoa học tiên tiến và hiện đại nhất. Ngược lại, dạy học sẽ giúp bạn có nền tảng kiến thức rộng. Kiến thức rộng sẽ giúp bạn kết nối những kiến thức tưởng như rời rạc thành lập luận logic cho nghiên cứu của mình.
Bước chuyển từ nghiên cứu sinh Tiến sĩ sang giáo sư đại học đã mở ra một thế giới mới với những trải nghiệm đầy màu sắc và bổ ích trên hành trình của tôi. Tôi rất vui về những gì đã đạt được và sẵn lòng đón nhận những thách thức mới trong tương lai. Hi vọng những kinh nghiệm và bài học tôi học được trong 2 năm qua sẽ hữu ích cho những bạn đang theo đuổi con đường nghiên cứu và giảng dạy chuyên nghiệp ở một trường đại học.
Cảm ơn bạn đã ghé đọc. Chúc bạn một tuần mới vui. Hẹn gặp bạn trong những bài viết tiếp theo.
Trương Thanh Mai
Discover more from SUNFLOWER FIELDS
Subscribe to get the latest posts sent to your email.
wow!! 56Tâm sự của một phụ nữ vừa làm mẹ vừa phát triển sự nghiệp
LikeLike